Nhìn chung, trong tháng 4 sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nắng hạn cục bộ; người nông dân tập trung vào khâu chăm sóc và thu hoạch vụ đông xuân; Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4 ước tăng 0,05% so tháng trước và tăng 8,14% so cùng kỳ năm trước; Ước thu ngân sách tháng 4 đạt 300 tỷ đồng...
I. Nông - lâm - thuỷ sản
1. Trồng trọt
* Cây hàng năm: Tính đến ngày 15/4/2020, diện tích gieo trồng vụ Đông xuân đạt 31.926,1 ha, giảm 32,7% (giảm 15.544,5 ha) so với cùng kỳ năm trước. Tiến độ diện tích sản xuất một số các loại cây trồng như sau:
- Cây lúa diện tích xuống giống 22.208,9 ha (giảm 14.763,2 ha), giảm 39,9% so với cùng kỳ; đặc biệt trong vụ ở Bắc Bình, có 129 ha lúa bị mất trắng do không chủ động được nguồn nước tưới, bà con nông dân ngừng chăm sóc. Diện tích thu hoạch lúa trên toàn tỉnh ước tính 8.417,0 ha, đạt 37,9% so với diện tích gieo cấy, do điều kiện nước tưới khó khăn được thông báo từ đầu vụ nên tâm lý người dân gieo cấy trễ ở những tháng đầu, dẫn đến tiến độ thu hoạch chưa nhiều.
- Cây bắp diện tích gieo trồng 3.450,6 ha (giảm 106,6 ha), giảm 3,0% so với cùng kỳ. Diện tích bắp trong tháng 4 được gieo trồng nhiều hơn so với tháng 3 vì tâm lý chờ đợi phân bổ nguồn nước tưới, bà con nông dân gieo trồng trễ.
- Cây thực phẩm rau đậu các loại, diện tích xuống giống đạt 4.672,2 ha, giảm 1,5% so với cùng kỳ; trong đó rau các loại xuống giống 3.043,3 ha, tăng 8,0% so với cùng kỳ do bà con tận dụng nguồn nước gió để gieo trồng và chuyển đổi cây trồng trên đất lúa kém hiệu quả (712 ha trồng rau các loại, 267 ha trồng dưa hấu); đậu các loại xuống giống được 1.628,9 ha, giảm 15,5 % so với cùng kỳ năm trước, giảm nhiều ở huyện Bắc Bình do lượng nước tưới ở huyện này không đủ điều kiện gieo trồng (giảm 546 ha so với cùng kỳ).
- Cây công nghiệp ngắn ngày, diện tích xuống giống đạt 1.081,2 ha, giảm 28% so với cùng kỳ. Trong đó, chiếm đa số là diện tích đậu phụng 1.054,7 ha, bằng 76,7% so với cùng kỳ, giảm nhiều ở huyện Bắc Bình do lượng nước tưới không đủ (giảm 320,3 ha so với cùng kỳ). Diện tích mè bằng 26,5 ha, giảm sâu so với cùng kỳ chủ yếu ở Đức Linh (giảm 94,5 ha so với cùng kỳ).
- Cây hàng năm khác, diện tích xuống giống đạt 375,7 ha giảm 15,8% so với cùng kỳ, do điều kiện tưới tiêu trong vụ không thuận lợi.
* Cây lâu năm: Trong tháng tình hình thời tiết nắng nóng trên địa bàn tỉnh; không phát triển thêm diện tích trồng mới, chủ yếu tập trung chăm sóc và thu hoạch.
- Cây thanh long: Hiện đang bắt đầu cho trái bói vụ chính và một phần diện tích chong đèn còn lại. Tình hình dịch bệnh Covid-19 đang có diễn biến phức tạp, tại Lạng Sơn, hàng hóa xuất nhập khẩu chủ yếu qua cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị, cửa khẩu chính Chi Ma, các cửa khẩu phụ Tân Thanh, Cốc Nam. Những ngày gần đây năng lực thông quan tại các cửa khẩu đã được cải thiện, tuy nhiên số lượng xe vận tải và hàng hóa tồn đọng tại các bến bãi trong khu vực cửa khẩu vẫn còn tương đối nhiều; mặc dù vậy việc thu mua thanh long của các thương lái tại các nhà vườn đang diễn ra bình thường, giá thanh long vẫn ở mức có lợi cho người trồng.
Đến thời điểm ngày 15/4/2020 toàn tỉnh có 10.165,7 ha được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn VietGap, trong đó Hàm Thuận Nam 6.269,1 ha; Hàm Thuận Bắc 3.077,7 ha; Bắc Bình 482,7 ha; Phan Thiết 89,8 ha; La Gi 152,1 ha; Hàm Tân 58,8 ha; Tuy Phong 35,4 ha.
- Cây điều: Đang trong mùa thu hoạch, năng suất điều năm nay đạt khá, tuy nhiên về giá bán so với cùng kỳ giảm hơn.
- Cây cao su: Trong thời kỳ thay lá, nhà vườn đang tập trung quét dọn vườn, bón phân chăm sóc cho vụ thu hoạch sắp đến. Do giá mủ cao su liên tục xuống thấp, thị trường xuất khẩu chưa có dấu hiệu chuyển biến tích cực, do đó diện tích trồng mới trong thời gian đến sẽ rất thấp.
- Cây tiêu: Đang cuối vụ thu hoạch, cùng với việc giá tiêu liên tục xuống thấp, việc đầu tư chăm sóc của nhà vườn có phần hạn chế hơn, năng suất thu hoạch vụ tiêu năm nay dự tính thấp hơn so với cùng kỳ. Dự tính diện tích phát triển mới trên địa bàn tỉnh trong thời gian đến tăng thấp.
* Tình hình dịch bệnh: Trong tháng tình hình sâu bệnh trên các loại cây trồng không diễn biến phức tạp, xảy ra dưới dạng cục bộ ảnh hưởng không đáng kể đến cây trồng.
- Cây lúa: Sâu đục thân có diện tích nhiễm nhiều nhất 750 ha, tăng 497 ha so với cùng kỳ; rầy nâu gây hại trên diện tích 659ha, giảm 156 ha so với cùng kỳ; bệnh đạo ôn lá gây hại trên diện tích 502 ha, giảm 989 ha so với cùng kỳ xảy ra chủ yếu ở Tánh Linh, Đức Linh, Tuy Phong, Lagi.
- Cây bắp: Sâu keo mùa thu là đối tượng gây hại chính và phổ biến với diện tích nhiễm cao nhất (16 ha) trên địa bàn huyện Bắc Bình là chủ yếu.
- Cây mỳ: Bệnh nhện đỏ gây hại 310 ha, giảm 90 ha so với cùng kỳ, rệp sáp diện tích nhiễm là 100 ha, giảm 15 ha so với cùng kỳ, chủ yếu xảy ra ở huyện Hàm Tân.
- Cây thanh long: Diện tích nhiễm bệnh đốm nâu là 258 ha, giảm 297 ha so với cùng kỳ; nám vàng cành gây hại mạnh với diện tích 4.342 ha, tăng 2.966 ha so với cùng kỳ, chủ yếu xảy ra ở Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc, Tuy Phong, Phan Thiết.
- Cây điều: Diện tích nhiễm bệnh thán thư 234 ha, giảm 982 ha so với cùng kỳ; diện tích nhiễm bệnh bọ xít muỗi 146 ha, giảm 472 ha so với cùng kỳ năm trước, chủ yếu diễn ra ở Hàm Tân, Tánh Linh, La gi , Tuy Phong.
* Tình hình tưới vụ Đông xuân 2019-2020:
Căn cứ vào khả năng cấp nước và tình hình hạn hán đang xảy ra, tỷ lệ thực hiện kế hoạch tưới tiêu sản xuất hiện tại chỉ có Chi nhánh La Ngà đảm bảo được nguồn nước tưới theo kế hoạch. Kết quả cấp nước sản xuất vụ Đông Xuân 2019 - 2020 đạt 37.277 ha/ KH 37.220 ha đạt 100,2%; trong đó, diện tích tưới lúa, hoa màu thuộc hệ thống công trình thủy lợi toàn tỉnh đạt 17.486 ha/KH 17.429 ha (đạt 100,3%); diện tích tưới cây thanh long và cây công nghiệp dài ngày đạt 19.791 ha/KH 19.791 ha (đạt 100%).
Đến ngày 17/4/2020, dung tích hữu ích hiện tại trên 17 hồ đập của tỉnh còn 29,98 triệu m3/ 259 triệu m3 (11,6%), thấp hơn 56,24 triệu m3 so với cùng kỳ; Hồ chứa Đại Ninh 23,89 triệu m3/ 251 triệu m3 (13,07%), thấp hơn 73,89 triệu m3 so với cùng kỳ; Hàm Thuận - Đa Mi 232,64 triệu m3/ 522 triệu m3 (44,52%), cao hơn 185,6 triệu m3 so với cùng kỳ.
Về cấp nước sinh hoạt: do tình trạng nắng hạn kéo dài, đã làm cho 25.126 hộ/92.824 khẩu thiếu nước sinh hoạt trên địa bàn tỉnh.
2. Chăn nuôi
- Chăn nuôi trâu, bò trên địa bàn tỉnh tiếp tục được duy trì; đàn trâu có khuynh hướng giảm do hiệu quả kinh tế không cao, trong điều kiện thời tiết nắng nóng nguồn thức ăn khan hiếm, người chăn nuôi chủ động giảm đàn; đàn bò phát triển tốt do thị trường tiêu thụ, giá bán ổn định đa phần người chăn nuôi có lãi. Ước đến thời điểm 01/4/2020 toàn tỉnh có 8.710 con trâu, giảm 2,8% so với cùng kỳ và 167.300 con bò, tăng 0,2% so với cùng kỳ.
- Chăn nuôi lợn đang có dấu hiệu dần phục hồi sau thời gian giảm đàn do bệnh dịch tả lợn Châu phi, hiện nguồn cung ứng thịt lợn hơi ít, giá cao nhiều hộ chăn nuôi đang tái đàn nhưng gặp khó khăn về con giống, do sau thời gian dịch bệnh số lượng lợn nái chăn nuôi ở các hộ dân giảm; trong khi các doanh nghiệp, trang trại lớn chủ động về con giống nên dễ phát triển đàn. Ước đến thời điểm 01/4/2020 toàn tỉnh có 271.900 con, giảm 0,9 % so với cùng kỳ.
- Chăn nuôi gia cầm đang phát triển khá tốt, giá đầu ra ổn định, nhiều hộ, gia trại, trang trại đang mở rộng quy mô phát triển đàn. Ước đến thời điểm 01/4/2020 toàn tỉnh có 3.400 ngàn con gia cầm, tăng 3,7% so với cùng kỳ; trong đó đàn gà 2.100 ngàn con, tăng 6,6% so với cùng kỳ.
* Tình hình phòng phòng, chống dịch tả lợn Châu phi:
Tính đến thời điểm 15/4/2020 có 47/47 xã, phường, thị trấn đã có Quyết định công bố hết dịch bệnh Dịch tả lợn Châu phi trên địa bàn các huyện Đức Linh, Tánh Linh, Hàm Tân, Hàm Thuận Bắc, thị xã La Gi và thành phố Phan Thiết.
* Công tác tiêm phòng, kiểm dịch động vật:
Trong tháng không xuất hiện các ổ dịch nguy hiểm ở động vật như cúm gia cầm, lở mồm long móng ở gia súc, bệnh tai xanh trên lợn; một số bệnh truyền nhiễm có xảy ra trên gia súc, gia cầm nhưng chỉ dừng lại ở mức độ lẻ tẻ không lây lan thành dịch. Để hạn chế các ổ dịch cũ có nguy cơ tái phát và lây lan dịch bệnh, Chi cục Thú y tỉnh đã phối hợp với các địa phương trên địa bàn tỉnh tập trung triển khai các giải pháp phòng, chống dịch trên gia súc, gia cầm và khi phát hiện có bệnh chết bất thường tổ chức lấy mẫu bệnh gửi đi xét nghiệm, thông báo ngay cho ngành y tế khi phát hiện các ổ dịch; thực hiện công tác tiêm phòng vắc xin tai xanh trên lợn, vắc xin cúm gia cầm, lở mồm long móng và tụ huyết trùng trên gia súc; kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển gia súc, gia cầm và quản lý giết mổ động vật; giám sát lượng lợn nhập vào tỉnh để tái đàn; vận động người chăn nuôi định kỳ thực hiện vệ sinh sát trùng chuồng trại, thực hành chăn nuôi an toàn sinh học.
- Công tác tiêm phòng, các địa phương trên toàn tỉnh đã tổ chức tiêm phòng 1.981.527 liều vắc xin, lũy kế 4 tháng 7.109.244 liều; trong đó đàn trâu bò 27.425 liều, đàn heo 39.609 liều, đàn gia cầm 1.913.974 liều; lũy kế 4 tháng đàn trâu bò 46.958 liều, đàn lợn 131.622 liều, đàn gia cầm 6.928.614 liều.
- Kiểm dịch động vật, kết quả đã kiểm dịch đàn lợn 96.074 con, 511 con trâu bò, 94.650 con gia cầm, 146 con dê, 2.920 kg thịt dê, 2.003.760 quả trứng gia cầm; lũy kế 4 tháng (đến ngày 15/4/2020) đã kiểm dịch 471.435 con lợn, 4.095 con trâu bò, 1.184.274 con gia cầm, 172 con dê, 17.361 kg thịt dê, 8.695.680 quả trứng gia cầm.
- Kiểm soát giết mổ, thực hiện giám sát thường xuyên điều kiện vệ sinh thú y đối với các cơ sở kinh doanh giết mổ. Các Đoàn kiểm tra liên ngành các huyện thường xuyên tiến hành kiểm tra các quầy, sạp kinh doanh thịt gia súc, gia cầm tại chợ, kiểm soát giết mổ: 30 con trâu bò, 2.111 con lợn, 5.820 con gia cầm, 146 con dê. Luỹ kế 4 tháng (đến ngày 15/4/2020) trâu bò 163 con, heo 10.495 con, gia cầm 22.150 con, dê 743 con.
3. Lâm nghiệp:
- Công tác trồng rừng: Trong tháng hoạt động trồng rừng, chăm sóc rừng chưa được triển khai. Các đơn vị chủ rừng gieo tạo 1.079 nghìn cây giống, lũy kế 4 tháng đạt 1.079 nghìn cây, đạt 51,4%. Trên lĩnh vực sử dụng và phát triển rừng, đã chuẩn bị các điều kiện để thực hiện kế hoạch gieo tạo cây giống, trồng rừng tập trung theo kế hoạch trồng rừng thay thế trên các diện tích do bị lấn, chiếm trái pháp luật. Tiếp tục triển khai công tác giao khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh rừng từ các nguồn vốn của trung ương và chương trình mục tiêu phát triển lâm nghiệp bền vững.
- Công tác phòng chống cháy rừng: Trong tháng không xảy ra cháy rừng trên địa bàn tỉnh; nhưng xảy ra 36 trường hợp, với diện tích 57,4 ha cháy thực bì dưới tán lá rừng và không gây thiệt hại đến cây rừng. Tỉnh đã tích cực chủ động trong công tác phòng, chống cháy rừng nhằm giảm tối đa về thiệt hại rừng. Toàn tỉnh đã xây dựng 219.529 km đường băng cản lửa (trong đó 219.295 km đường băng trắng và 234 km đường băng xanh), 11 chòi canh lửa; trang bị 463 máy móc thiết bị và 4.095 công cụ thủ công, sẵn sàng ứng phó khi tình huống cháy khẩn cấp xảy ra, bên cạnh đó thành lập được 107 ban chỉ huy phòng chống cháy rừng các cấp. Kế hoạch diện tích giao khoán bảo vệ rừng năm 2020 là 131.292 ha đạt 108,6% kế hoạch.
- Công tác quản lý, bảo vệ rừng: Công tác bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa cháy rừng, quản lý rừng phòng hộ và rừng đặc dụng được tiếp tục được tăng cường. Tổ chức các hoạt động kiểm tra, truy quét, bố trí lực lượng chốt chặn tại các khu vực trọng điểm về phá rừng, lấn chiếm đất rừng và cháy rừng để chủ động ứng phó, xử lý, ngăn chặn kịp thời, nhất là vùng giáp ranh với tỉnh Lâm Đồng.
Việc kiểm tra, truy quét chống phá rừng tại các điểm nóng và vùng giáp ranh luôn được tăng cường. Trong tháng đã phát hiện 19 vụ vi phạm lâm luật, lũy kế 66 vụ, trong đó: phá rừng trái phép 1 vụ, khai thác gỗ và lâm sản khác 24 vụ, mua bán vận chuyển lâm sản trái phép 17 vụ và vi phạm khác 24 vụ.
Tổng số vụ vi phạm đã xử lý trong tháng là 11 vụ, số lâm sản tịch thu 19,23 m3, khởi tố hình sự 01 vụ về hành vi phá rừng trái pháp luật tại Ban quản lý rừng phòng hộ Sông Mao quản lý. Đến nay đã xử phạt 66 vụ, xử phạt vi phạm hình sự 2 vụ, hành chính 64 vụ; tịch thu 13 xe máy, 2 xe trâu bò kéo, 1 ghe, 13 phương tiện khác và 82,2 m3 gỗ các loại. Số tiền phạt, bán tang vật nộp vào ngân sách là 489 triệu đồng.
4. Thuỷ sản:
- Trong tháng 4, sản lượng thủy sản ước đạt 16.850,8 tấn, tăng 2,8% so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 4 tháng ước đạt 59.769,9 tấn, giảm 0,5% so cùng kỳ năm trước và đạt 18,58% so kế hoạch năm. Trong đó:
+ Nuôi trồng thủy sản: Diện tích nuôi trong tháng ước đạt 219,8 ha, giảm 1,4% so tháng cùng kỳ; lũy kế 4 tháng ước đạt 884,4 ha, giảm 2,4% so với cùng kỳ. Sản lượng thủy sản nuôi trồng tháng 4 ước đạt 1.174,9 tấn, giảm 1,8% so cùng kỳ năm trước; lũy kế 4 tháng ước đạt 4.456,4 tấn, giảm 2,8% so cùng kỳ năm trước và đạt 25,86% kế hoạch. Nguyên nhân giảm do tình hình tiêu thụ gặp nhiều khó khăn, một số hộ chủ động giảm diện tích thả nuôi.
+ Khai thác thuỷ sản: Trong tháng, tình hình thời tiết thuận lợi cho khai thác thủy sản; một số tàu câu khơi, vây rút chì, mành chụp, thường xuyên tham gia khai thác tại các vùng Trường Sa, DK1, ngoài khơi Đảo Côn Sơn. Với lượng tàu thuyền được trang bị máy móc hiện đại, thích hợp đánh bắt các vùng biển xa bờ cùng với giá nhiên liệu giảm; nên ngư dân các vùng đã an tâm bám biển khai thác, các chuyến đánh bắt xa bờ dài ngày hoạt động ngày càng tăng trong khai thác biển. Các tàu thuyền có công suất lớn tập trung khai thác ở vùng biển xa trong điều kiện thời tiết thuân lợi. Sản lượng thuỷ sản khai thác trong tháng ước đạt 15.675,9 tấn tăng 3,1% so tháng cùng kỳ, lũy kế 4 tháng ước đạt 55.313,5 tấn, giảm 0,3% so với cùng kỳ; trong đó khai thác biển ước đạt 15.630 tấn, tăng 3,1% so tháng cùng kỳ; lũy kế 4 tháng ước đạt 55.105,3 tấn giảm 0,3% so với cùng kỳ.
Khai thác thủy sản biển tiếp tục đầu tư theo hướng giảm dần tàu thuyền công suất nhỏ khai thác ven bờ, phát triển tàu có công suất lớn đánh bắt xa bờ. Các tàu từ 90 mã lực trở lên trang bị đầy đủ máy định vị vệ tinh, máy đo sâu dò cá, máy thông tin liên lạc vô tuyến điện tầm xa; tàu từ 400 mã lực trở lên trang bị thêm hệ thống nhận dạng tự động và sử dụng một số công nghệ mới trong bảo quản sản phẩm để cải thiện về chất lượng, giảm tỷ lệ hao hụt sản phẩm sau thu hoạch, tăng thời gian bám biển cho tàu cá.
- Sản xuất giống thuỷ sản: Trong tháng ước đạt 1,5 tỷ post, giảm 14,3% so với cùng kỳ; lũy kế 4 tháng ước đạt 6,4 tỷ post giảm 13,6% so với cùng kỳ năm trước. Tình hình sản xuất tôm giống gặp nhiều khó khăn do ảnh hưởng của dịch viêm đường hô hấp (Covid-19) và giá cả, thị trường tôm thịt xuất khẩu giảm, tôm thương phẩm tiêu thụ chậm. Tiếp tục tăng cường công tác quản lý chất lượng giống thuỷ sản, nhất là giống tôm bố mẹ; theo dõi chặt chẽ tình hình các vùng nuôi trồng thủy sản, thu mẫu quan trắc, cảnh báo môi trường vùng nuôi. Cá giống các loại trong tháng ước đạt 1,1 triệu con, giảm 8,3% so cùng kỳ; lũy kế ước đạt 5,4 triệu con, giảm 1,8% so với cùng kỳ; tập trung ở các điểm nuôi giống ở La Gi, Tánh Linh và Đức Linh.
- Công tác quản lý, khai thác, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản luôn được tăng cường kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Đã tổ chức triển khai công tác đăng kiểm thường kỳ. Thực hiện công tác thanh tra, kiểm soát trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thủy sản; công tác đăng ký, đăng kiểm tàu cá đảm bảo an toàn khi hoạt động trên biển. Luỹ kế 4 tháng (đến ngày 15/04/2020) có 6 vụ vi phạm xảy ra; trong đó: 01 vụ tàng trữ công cụ kích điện để khai thác thủy sản; 01 vụ không chứng chỉ thuyền trưởng, máy trưởng; 01 vụ không đánh dấu nhận biết tàu cá; Qua 4 tháng đầu năm không có tàu cá vi phạm vùng biển nước ngoài.
Nhìn chung, trong tháng 4 sản xuất nông nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nắng hạn cục bộ; người nông dân tập trung vào khâu chăm sóc và thu hoạch vụ đông xuân; tình hình bệnh dịch tả lợn Châu phi trên địa bàn tỉnh đã được khống chế hoàn toàn; trong 4 tháng đầu năm, ngành thủy sản có dấu hiệu sụt giảm so cùng kỳ. Công tác phòng, chống cháy rừng đạt được kết quả tích cực. Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, tác động tiêu cực tới hoạt động sản xuất, xuất nhập khẩu sản phẩm nông, thuỷ sản.
II. Công nghiệp; đầu tư phát triển; đăng ký kinh doanh; đăng ký đầu tư
1. Công nghiệp
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 4 ước tăng 0,05% so tháng trước và tăng 8,14% so cùng kỳ năm trước, trong đó ngành khai khoáng giảm 86,04%; công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,60%; sản xuất và phân phối điện tăng 11,15%; cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải giảm 2,85%. Lũy kế 4 tháng, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 10,89% so cùng kỳ năm trước (năm 2019 tăng 32,27% so năm 2018; năm 2018 tăng 14,38% so năm 2017). Trong đó, ngành khai khoáng tăng 7,99%; ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 1,21%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 14,1%; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 3,27% so cùng kỳ năm trước.
Giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh năm 2010) trong 4 tháng ước 10.856 tỷ đồng, đạt 30% kế hoạch năm, tăng 7,71% so cùng kỳ năm trước, trong đó công nghiệp khai khoáng 211,7 tỷ đồng (tăng 8,86%); công nghiệp chế biến chế tạo 5.078 tỷ đồng (tăng 0,96%); sản xuất và phân phối điện 5.469,5 tỷ đồng (tăng 14,85%); cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý nước thải, rác thải đạt 96,7 tỷ đồng (tăng 4,73%).
Các sản phẩm sản xuất trong 4 tháng tăng so cùng kỳ gồm: Cát sỏi các loại (tăng 9,16%), muối hạt (tăng 87,64%), hạt điều nhân (tăng 39,81%), nước khoáng (tăng 2,79%), nước máy sản xuất (tăng 0,41%), điện (tăng 13,44%), thức ăn gia súc (tăng 16,36%). Sản phẩm giảm gồm: Đá khai thác (giảm 0,33%), thủy sản đông lạnh (giảm 10,96%), thủy sản khô (giảm 21,90%), nước mắm (giảm 1,64%), quần áo may sẵn (giảm 5,36%), gạch các loại (giảm 10,05%), sơ chế mũ cao su (giảm 12,75%), đồ gỗ và các sản phẩm gỗ (giảm 12,06%), giày dép các loại (giảm 15,14%).
Tình hình nguyên vật liệu đầu vào phục vụ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp: Trong quý I, các doanh nghiệp vẫn đủ nguyên liệu cho sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn nguyên liệu dự trữ sẵn; tuy nhiên dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, bùng phát mạnh tại một số quốc gia đã ảnh hưởng đến nguồn nguyên liệu nhập khẩu phục vụ cho sản xuất công nghiệp (nguồn cung đầu vào từ Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản…), đặc biệt là ngành chế biến, chế tạo. Dự báo từ tháng 4/2020 trở đi, các doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về nguyên liệu sản xuất đầu vào và thị trường xuất khẩu, tiêu thụ sản phẩm. Các ngành hàng đang bị ảnh hưởng về thị trường xuất khẩu và tiêu thụ sản phẩm gồm giày da, may mặc, đồ gỗ và các sản phẩm gỗ, nông sản, thuỷ sản. Dự kiến từ quý 2/2020, các doanh nghiệp bắt đầu phải cắt giảm một phần lao động và đến cuối năm giảm khoảng 30%, tương đương 3.000 - 3.500 lao động.
Nhìn chung, trong tháng 4 tình hình dịch bệnh Covid-19 tiếp tục tác động tiêu cực đến lĩnh vực sản xuất công nghiệp của tỉnh, gây nhiều khó khăn trong hoạt động ngoại thương, làm sụt giảm nhu cầu tiêu thụ đầu ra nên các đối tác đã và sẽ còn giãn, hoãn, hủy các đơn đặt hàng, gây sụt giảm kim ngạch xuất khẩu và sản lượng. Dự ước sản lượng tiêu thụ giảm khoảng 30- 40%, cá biệt có doanh nghiệp bị cắt giảm 80-90% đơn hàng xuất khẩu so với cùng kỳ, nhất là ở các lĩnh vực hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ.
2. Đầu tư phát triển:
Trong tháng, vốn đầu tư thực hiện từ nguồn ngân sách nhà nước ước đạt 216,2 tỷ đồng, tăng 1,07% so tháng cùng kỳ. Lũy kế 4 tháng đạt 580,25 tỷ đồng, tăng 4,73% so cùng kỳ năm trước, trong đó vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước thực hiện 418,22 tỷ đồng (tăng 7,03% so cùng kỳ năm trước), vốn ngân sách nhà nước cấp huyện 117,85 tỷ đồng (giảm 2,15%), vốn ngân sách nhà nước cấp xã 14,78 tỷ đồng (giảm 3,86%).
Trong tháng tiếp tục triển khai thực hiện hiện các dự án trọng điểm của tỉnh (theo Nghị quyết số 93/NQ-HĐND ,ngày 02/12/2019 của HĐND tỉnh về kế hoạch đầu tư công và danh mục các dự án trọng điểm của tỉnh năm 2020). Qua 4 tháng đầu năm 2020, các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án trọng điểm của tỉnh đã được quan tâm triển khai thực hiện; được ưu tiên bố trí vốn; định kỳ hàng tháng rà soát đánh giá tiến độ thực hiện của từng dự án, giải quyết kịp thời các vướng mắc khó khăn,… theo đúng chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Chỉ thị số 11/CT-TTg, ngày 04/3/2020 về các nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, bảo đảm an sinh xã hội ứng phó với dịch Covid-19.
Nhìn chung, do ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 các nhà thầu chậm triển khai thi công, chủ yếu thi công các công trình chuyển tiếp từ năm trước nên nhìn chung tỷ lệ vốn đầu tư thực hiện trong quý không cao so với kế hoạch năm 2020; nguồn vốn tập trung chủ yếu thực hiện các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng chuyển tiếp của năm trước.
3. Tình hình đăng ký doanh nghiệp:
Tính từ ngày 15/3 đến ngày 20/4/2020, có 54 doanh nghiệp thành lập mới, giảm 49% so với cùng kỳ; tổng vốn đăng ký mới là 658,85 tỷ đồng, giảm 63,67% so cùng kỳ; giải thể 06 doanh nghiệp, giảm 25% so với cùng kỳ; tạm ngừng hoạt động 42 doanh nghiệp và 14 đơn vị trực thuộc, tăng 3,7 lần so với cùng kỳ; đăng ký thay đổi 07 doanh nghiệp, giảm 53,3% so cùng kỳ.
Lũy kế 4 tháng (tính đến ngày 20/4/2020), có 350 doanh nghiệp thành lập mới, tăng 5,74% so với cùng kỳ; vốn đăng ký 1.874,93 tỷ đồng, giảm 53,3% so với cùng kỳ; giải thể 51 doanh nghiệp, giảm 25% so với cùng kỳ; tạm ngừng hoạt động 150 doanh nghiệp, tăng gấp 2 lần so cùng kỳ; đăng ký thay đổi 128 doanh nghiệp, tăng 19,63% so cùng kỳ; 38 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, giảm 41,54% so với cùng kỳ.
4. Đăng ký đầu tư:
Trong tháng, trên địa bàn tỉnh có 04 dự án được cấp Quyết định chủ trương đầu tư/Giấy chứng nhận đầu tư, với tổng diện tích đất 95,8 ha, tổng vốn đăng ký 107,03 tỷ đồng; Lũy kế đến nay (tính đến ngày 16/4/2020) có 22 dự án được cấp, điều chỉnh với diện tích 171,6 ha, vốn đăng ký 1.071 tỷ đồng.
Trong tháng có 04 dự án khởi công, không có dự án đi vào hoạt động và 01 dự án bị thu hồi. Lũy kế 4 tháng (tính đến 16/4/2020) có 05 dự án khởi công, không có dự án đi vào hoạt động và 04 dự án bị thu hồi. Công tác hỗ trợ doanh nghiệp được quan tâm và chú trọng. Công tác xúc tiến đầu tư tiếp tục được thực hiện.
III. Thương mại, giá cả; du lịch; xuất nhập khẩu; giao thông vận tải
1. Thương mại, giá cả:
- Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tháng 4 ước đạt 3.268,7 tỷ đồng, so tháng trước giảm 23,97% và giảm 28,18% so tháng cùng kỳ năm trước; trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 2628 tỷ đồng, giảm 18,14% so tháng trước và giảm 13,12% so tháng cùng kỳ; dịch vụ ước đạt 233,2 tỷ đồng, giảm 42,85% so tháng trước và giảm 53,05% so tháng cùng kỳ; lưu trú, ăn uống ước đạt 407,4 tỷ đồng, giảm 40,1% so tháng trước và giảm 60,42% so tháng cùng kỳ.
Luỹ kế 4 tháng, ước đạt 17.874,5 tỷ đồng, giảm 4,49% so cùng kỳ năm trước (luỹ kế 4 tháng năm 2018 tăng 11,18% so với năm 2017; luỹ kế 4 tháng năm 2019 tăng 12,28% so với năm 2018); trong đó, tổng mức bán lẻ hàng hoá ước đạt 12.781,9 tỷ đồng, tăng 2,87% so cùng kỳ, dịch vụ ước đạt 1.702,1 tỷ đồng, giảm 15,21% so cùng kỳ; lưu trú, ăn uống ước đạt 3.390,5 tỷ đồng, giảm 20,83%, so cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, trong tháng, hoạt động thương mại dịch vụ trên địa bàn tỉnh tiếp tục bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 gây ra; hàng hoá vẫn đáp ứng đủ cho nhu cầu tiêu dùng, giá bán ổn định không tăng giá đột biến; các trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị, hệ thống chợ trong toàn tỉnh vẫn duy trì phục vụ nhu cầu người dân và có sự kiểm soát của chính quyền địa phương. Người tiêu dùng chủ yếu mua sắm những mặt hàng thiết yếu theo nhu cầu gia đình (lương thực, thực phẩm), dược phẩm (thuốc, sản phẩm chăm sóc sức khoẻ), các dịch vụ giải trí tại nhà (truyền hình số, game online…). Điểm tích cực thay vì đến các trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị, người tiêu dùng hiện nay có xu hướng gia tăng sử dụng thương mại điện tử do ưu điểm không phải đến nơi đông người, hàng hoá được vận chuyển nhanh chóng, tiện lợi, nắm bắt được tình hình trên các trung tâm thương mại, hệ thống siêu thị, siêu thị điện máy, những hộ kinh doanh cá thể… đã đẩy mạnh kênh bán hàng online đáp ứng kịp thời nhu cầu của người dân.
- Công tác tăng cường kiểm tra, kiểm soát thị trường, quản lý địa bàn, nắm tình hình giá cả, biến động được tăng cường, qua đó phát hiện nhanh, kịp thời ngăn chặn và xử lý nghiêm các hành vi vi phạm của các đối tượng kinh doanh theo quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi để hàng hoá lưu thông trên thị trường, không để xảy ra tình trạng đầu cơ, găm hàng gây bất ổn thị trường. Trong tháng 3 năm 2020, lực lượng chức năng đã kiểm tra 206 vụ, phát hiện và xử lý 7 vụ vi phạm, trong đó 05 vụ vi phạm hàng cấm, 01 vụ vi phạm trong kinh doanh, 01 vụ vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm...; đã xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 148,06 triệu đồng. Luỹ kế 3 tháng, đã kiểm tra 463 vụ, phát hiện và xử lý 109 vụ vi phạm, trong đó có 13 vụ vi phạm hàng cấm, 08 vụ vi phạm hàng nhập lậu, 01 vụ vi phạm đầu cơ, găm hàng và sai phạm trong lĩnh vực giá, 34 vụ vi phạm trong kinh doanh, 28 vụ vi phạm vệ sinh an toàn thực phẩm, 25 vụ vi phạm trên các lĩnh vực khác...; đã xử phạt và thu nộp ngân sách Nhà nước 839,84 triệu đồng.
- Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 năm 2020 so tháng trước giảm 1,77%; so với tháng cùng kỳ năm trước (sau 01 năm) tăng 3,17%; bình quân 4 tháng năm 2020 tăng 5,19% so bình quân 4 tháng năm 2019; so với tháng 12/2019 (sau 4 tháng) chỉ số giá tiêu dùng giảm 1,57%.
Trong 11 nhóm hàng hoá và dịch vụ chính so tháng trước, có 02 nhóm tăng: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,36%; Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%. Có 06 nhóm hàng hoá và dịch vụ giảm: Giao thông giảm 15,75%; Nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 2,8%; Văn hóa, giải trí và du lịch giảm 2,06%; May mặc, mũ nón, giầy dép giảm 1,21%; Hàng hóa và dịch vụ khác giảm 0,06%; Đồ uống và thuốc lá giảm 0,03%. Có 03 nhóm hàng hoá và dịch vụ vẫn giữ mức ổn định là Giáo dục, Bưu chính viễn thông, Thuốc và dịch vụ y tế không tăng, giảm so tháng trước.
* Diễn biến giá tiêu dùng của một số nhóm hàng chính trong tháng 4 năm 2020 như sau:
- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,36%, trong đó nhóm lương thực tăng 1,16%, do ảnh hưởng bởi dịch bệnh covid-19 và nhu cầu tiêu dùng, dự trữ gạo của người dân tăng dẫn đến giá gạo tăng 1,2%; giá bắp tăng 1,22%, giá mỳ tăng 2,44%, giá khoai tăng 0,37%, do ảnh hưởng thời tiết nắng hạn nguồn nước không đủ cung ứng tưới tiêu làm giảm diện tích gieo trồng, sản lượng cung ứng thị trường hạn chế làm cho giá bán có phần tăng so với tháng trước.
- Nhóm hàng thực phẩm tăng 0,44%, trong đó nhóm thực phẩm tăng chủ yếu các mặt hàng thực phẩm tươi sống và các mặt hàng rau củ quả tươi, cụ thể: do giá thịt lợn tháng 4 năm 2020 diễn biến khá bất thường do ảnh hưởng từ dịch bệnh Covid-19 cùng với tâm lý lo ngại nguồn cung hạn chế do ảnh hưởng từ dịch tả lợn châu Phi. Mặc dù Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt nhưng giá heo hơi tại địa phương vẫn tăng mạnh, bình quân tháng 4 giá thịt heo tăng 2,94% so tháng trước nhưng vẫn đang ở mức cao, tăng 59,76% so với cùng kỳ năm trước; Giá các mặt hàng rau tươi tăng 1,09%, tăng chủ yếu các mặt hàng tươi từ Đà Lạt như bắp cải, cà chua, khoai tây, đậu côve...; Quả tươi chế biến tăng 1,29% do đang trái vụ thu hoạch nên các mặt hàng như cam tươi, quýt.... tăng so với tháng trước.
- Nhóm ăn uống ngoài gia đình giảm 0,25%, do ảnh hưởng bởi dịch và do giá gas, giá xăng dầu giảm mạnh cùng với lượng khách ăn uống tại quán giảm nên giá suất ăn ở quán bình dân giảm 0,34%, uống ngoài gia đình tăng 0,06%.
- Nhóm may mặc, mũ nón và giầy dép giảm 1,21%, do thời tiết đang chuyển mùa nên nhu cầu tiêu dùng của người dân về một số mặt hàng quần áo phục vụ mùa đông giảm mạnh như giá áo khoác người lớn giảm 1,1%; giá áo len giảm 1,72%; giá giầy dép giảm 1%.
- Nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 2,8%, giảm do giá gas tháng 4 năm 2020 giảm 20,35% so với tháng trước do giá gas trong nước điều chỉnh giảm 69.000 đồng/bình 12 kg theo giá gas thế giới làm CPI chung giảm 0,22%. Giá dầu hỏa giảm 30,44% do được điều chỉnh giảm vào ngày 31/3/2020 và ngày 13/4/2020 với tổng mức giảm 3.200 đồng/lít so với tháng trước. Riêng chỉ số giá điện sinh hoạt tăng 1,12%, giá nước sinh hoạt tăng 0,32% do thời tiết tháng 4 nắng nóng kéo dài, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 người dân hạn chế ra ngoài, học sinh sinh viên ở nhà nên nhu cầu sử dụng điện, nước sinh hoạt tăng cao hơn so với tháng trước.
- Nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,03%, chỉ số giá nhóm hàng này tăng chủ yếu ở các mặt hàng đồ dùng gia đình do nhu cầu tăng vào mùa nắng nóng: máy điều hoà nhiệt độ tăng 1,1%; quạt điện tăng 0,06%.
- Nhóm giao thông giảm 15,75% so với tháng trước, giảm chủ yếu các mặt hàng nhiên liệu giảm 27,23%, do Chính phủ do điều chỉnh giảm giá xăng dầu vào ngày 31/3/2020 và 13/4/2020.
- Nhóm văn hóa, giải trí và du lịch giảm 2,06%, do tác động mạnh của dịch bệnh Covid-19 đến ngành du lịch, nhu cầu đi du lịch của người dân giảm nên giá các tua du lịch ngoài nước giảm 1,82%; giá khách sạn, nhà nghỉ giảm 4,31% so với tháng trước.
- Nhóm hàng hoá và dịch vụ khác giảm 0,04%, chỉ số nhóm hàng này giảm chủ yếu ở nhóm đồ trang sức giảm 1,89%.
2. Du lịch
Dự ước trong tháng 4 các cơ sở lưu trú du lịch trên địa bàn tỉnh đón và phục vụ 39,5 ngàn lượt khách, giảm 85,79% so tháng trước và giảm 86,73% so tháng cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ đạt 68,4 ngàn ngày khách, giảm 84,89% so tháng trước và giảm 91,25% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 4 tháng ước đạt 1.337,3 ngàn lượt khách, giảm 32,05% so cùng kỳ năm trước, ngày khách ước đạt 2.229,7 ngàn ngày khách, giảm 30,87% so cùng kỳ năm trước.
Do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh Covid-19 đến lĩnh vực du lịch cùng với đó là thực hiện Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19 được thực hiện nghiêm túc; trong tháng lượng khách quốc tế đến tỉnh tiếp tục giảm mạnh, dự ước số lượt khách quốc tế trong tháng 4 đạt 303 lượt khách, giảm 98,35% so tháng trước và giảm 99,5% so tháng cùng kỳ năm trước; ngày khách phục vụ đạt 1,81 ngàn ngày khách, giảm 96,97% so tháng trước và giảm 99,01% so tháng cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 4 tháng ước đạt 148,18 ngàn lượt khách, giảm 42,41% so cùng kỳ năm trước, ngày khách ước đạt 466,7 ngàn ngày khách, giảm 40,58% so cùng kỳ năm trước.
Doanh thu từ hoạt động du lịch trong tháng 4 ước đạt 165,5 tỷ đồng, giảm 81,09% so tháng trước và giảm 86,73% so cùng kỳ năm trước; luỹ kế 4 tháng ước đạt 3.660 tỷ đồng, giảm 26,11% so cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, trong bối cảnh dịch bệnh lan rộng trên toàn quốc, Chính phủ đã thực hiện các biện pháp phong toả, hạn chế đi lại giữa các tỉnh, tăng cường công tác kiểm dịch; thực hiện hạn chế tụ tập đông người, hủy bỏ nhiều lễ hội, hội nghị và nhất là việc thực hiện cách ly toàn xã hội, dẫn đến làm giảm nhu cầu du lịch trong nước cũng như khách quốc tế đến tỉnh. Hầu hết các cơ sở kinh doanh lưu trú trên địa bàn tỉnh chỉ phục vụ khách du lịch hiện tại đang lưu trú.
3. Xuất, nhập khẩu:
- Kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 4 ước đạt 22,8 triệu USD, giảm 42,61% so tháng trước và giảm 36,52% so với cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 4 tháng ước đạt 128,61 triệu USD, giảm 3,92% so cùng kỳ năm trước; trong đó, nhóm hàng thủy sản ước đạt 37,5 triệu USD, giảm 4,44% so cùng kỳ; nhóm hàng nông sản ước đạt 2,84 triệu USD, giảm 21,79% so cùng kỳ; nhóm hàng hoá khác ước đạt 88,3 triệu USD, giảm 2,98% so cùng kỳ. Khu vực kinh tế tư nhân 4 tháng xuất khẩu ước đạt 101,24 triệu USD, tăng 1,76% so cùng kỳ; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ước đạt 27,4 giảm 18,31%. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của tỉnh như sau:
+ Hàng may mặc: Kim ngạch xuất khẩu 4 tháng ước đạt 56,8 triệu USD, giảm 1,23% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 44,15% kim ngạch xuất khẩu cả tỉnh. Mặt hàng này thị trường xuất khẩu chủ yếu vẫn là Nhật Bản, tuy nhiên hiện nay thị trường này cũng đang bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19, nên việc xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp dệt may gặp nhiều khó khăn.
+ Hàng giày, dép: Kim ngạch xuất khẩu 4 tháng ước đạt 15,9 triệu USD, giảm 13,73% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 12,36% kim ngạch xuất khẩu.
+ Hàng thuỷ sản: Kim ngạch xuất khẩu 4 tháng tháng ước đạt 37,5 triệu USD, giảm 4,44% so cùng kỳ, chiếm tỷ trọng 29,14% kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
- Về thị trường hàng hoá xuất khẩu:
+ Xuất sang thị trường Châu Á ước đạt 81,64 triệu USD (giảm 7,18% so với cùng kỳ năm trước); trong đó thị trường Đông Á đạt 78,78 triệu USD (giảm 5,37%), thị trường Tây Á đạt 1,76 triệu USD (giảm 23,14%), thị trường Trung Nam Á đạt 0,31 triệu USD (giảm 48,21%), thị trường Đông Nam Á đạt 0,79 triệu USD (giảm 56,28%). Giảm chủ yếu ở thị trường Nhật Bản (mặt hàng mực tươi, áo sơ mi, quần dài), Hàn Quốc (mặt hàng cá tươi, mực tươi), Israel (mặt hàng cá tươi, giày dép).
+ Xuất sang thị trường Châu Âu đạt 19,18 triệu USD (tăng 42,25% so với cùng kỳ năm trước); trong đó thị trường Bắc Âu đạt 3,70 triệu USD (tăng 28,36%), thị trường Đông Âu đạt 0,82 triệu USD (tăng gấp 2,2 lần), thị trường Nam Âu đạt 1,43 triệu USD (giảm 59,49%), thị trường Tây Âu đạt 13,22 triệu USD (tăng 89,18%). Tăng chủ yếu ở thị trường Anh (mặt hàng tôm khác, giày dép), Đức (mặt hàng tôm thẻ, sản phẩm từ sắt thép), Hà Lan (mặt hàng tôm thẻ, giày dép).
+ Xuất sang thị trường Châu Mỹ đạt 19,76 triệu USD (giảm 20,40% so với cùng kỳ năm trước); trong đó thị trường Bắc Mỹ đạt 14,69 triệu USD (giảm 21,31%), thị trường Trung Mỹ đạt 4,97 triệu USD (giảm 18,40%). Giảm chủ yếu ở thị trường Belizơ (mặt hàng đế giày và gót giày), thị trường Mỹ (mặt hàng các sản phẩm giày dép, đồ gỗ, cá hộp).
- Ủy thác xuất khẩu 4 tháng ước đạt 6,49 triệu USD, tăng 12,26% so với cùng kỳ. Chủ yếu tăng ở mặt hàng bộ quần áo, mực tươi.
-Nhập khẩu 4 tháng ước đạt 204,3 triệu USD, giảm 57,23% so với cùng kỳ. Giảm chủ yếu ở mặt hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng.
Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tháng 4 năm 2020 tiếp tục có tốc độ tăng trưởng âm so tháng trước và so với tháng cùng kỳ năm trước, ảnh hưởng đến tất cả các mặt hàng xuất khẩu của cả tỉnh. Hàng nông, thủy sản của tỉnh xuất khẩu sang các thị trường rất đa dạng nhưng chịu ảnh hưởng trực tiếp và rõ nét nhất là các mặt hàng quả tươi, thủy sản do đây là các sản phẩm tươi hoặc sơ chế, khó có thể bảo quản lâu dài. Trong giai đoạn cao điểm của dịch, hoạt động xuất khẩu sang các thị trường lớn như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc... đều diễn ra rất chậm, giảm mạnh, chủ yếu do các lệnh phong tỏa, hạn chế đi lại; mặt khác do thiếu nhân lực và các thủ tục thông quan kéo dài vì phải tuân thủ các quy định về kiểm soát dịch bệnh. Vì lẽ đó, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thuỷ sản giảm 43,76% so tháng cùng kỳ năm trước; nhóm hàng nông sản giảm sâu, giảm 52,21% so tháng cùng kỳ năm trước; nhóm hàng hoá khác cũng không ngoại lệ, giảm 32,45% so tháng cùng kỳ năm trước (giảm sâu ở nhóm giày, dép các loại giảm 45,73%).
4. Giao thông vận tải:
- Vận tải hành khách:
+ Ước tháng 4 đã vận chuyển 386,28 nghìn hành khách và luân chuyển 21,018 triệu hk.km. Lũy kế 4 tháng, toàn tỉnh đã vận chuyển 6.737,64 nghìn hành khách, giảm 24,72% so cùng kỳ và luân chuyển 337,86 triệu hk.km, giảm 24,09% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 4 vận chuyển hành khách đường bộ đạt 385,19 nghìn hành khách, lũy kế 4 tháng đạt 6.701,80 nghìn hành khách, giảm 24,53% so cùng kỳ; vận chuyển hành khách đường thủy đạt 1,09 nghìn hành khách, lũy kế 4 tháng đạt 35,84 nghìn hành khách, giảm 48,72% so cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường bộ đạt 20,89 triệu hk.kmm, lũy kế 4 tháng đạt 333,84 triệu hk.km, giảm 23,65% so cùng kỳ; luân chuyển hành khách đường thủy đạt 0,12 triệu hk.km, lũy kế 4 tháng đạt 4,01 triệu hk.km, giảm 48,85% so cùng kỳ năm trước.
- Vận tải hàng hoá:
+ Ước tháng 4 vận chuyển hàng hoá đạt 412,68 nghìn tấn và luân chuyển hàng hoá đạt 21,67 triệu tấn.km. Lũy kế 4 tháng, toàn tỉnh đã vận chuyển 2.978,31 nghìn tấn hàng hoá, giảm 11,21% so cùng kỳ và luân chuyển hàng hoá đạt 160,93 triệu tấn.km, giảm 13,33% so cùng kỳ năm trước.
+ Xét theo lĩnh vực, trong tháng 4 vận chuyển hàng hoá đường bộ đạt 412,49 nghìn tấn, lũy kế 4 tháng đạt 2.976,26 nghìn tấn, giảm 11,19% so cùng kỳ; vận chuyển hàng hoá đường thủy đạt 0,19 nghìn tấn, lũy kế 4 tháng đạt 2,06 nghìn tấn, giảm 33,70% so cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường bộ đạt 21,65 triệu tấn.km, lũy kế 4 tháng đạt 160,69 triệu tấn.km, giảm 13,29% so cùng kỳ; luân chuyển hàng hoá đường thủy đạt 21 nghìn tấn.km, lũy kế 4 tháng đạt 239,31 nghìn tấn.km, giảm 33,45% so cùng kỳ năm trước.
- Cảng quốc tế Vĩnh Tân: Khối lượng bốc xếp hàng hoá tháng 4 ước đạt 40.000 tấn, lũy kế 4 tháng đạt 130.868 tấn. Các mặt hàng chủ yếu thông qua cảng gồm quặng Ilmenite, cát, tro bay, xi măng,... Ước doanh thu 4 tháng đầu năm đạt 6,597 tỷ đồng.
Nhìn chung, trong tháng ngành vận tải, kho bãi của tỉnh tiếp tục chịu tác động mạnh bởi dịch Covid-19, việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh Covid-19 theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, dẫn đến doanh thu vận tải hành khách ước đạt 259, tỷ đồng, giảm 25,21% so với cùng kỳ; Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 372,4 tỷ đồng, giảm 13,47% so với cùng kỳ; Doanh thu kho bãi, dịch vụ hỗ trợ vận tải ước đạt 13,1 tỷ đồng, giảm 22,96% so với cùng kỳ.
IV. Thu, chi ngân sách; hoạt động tín dụng
1. Thu ngân sách:
Ước thu ngân sách tháng 4 đạt 300 tỷ đồng. Lũy kế 4 tháng đạt 3.290,61 tỷ đồng, đạt 30,61% dự toán năm, giảm 31,19% so cùng kỳ năm trước; trong đó thu nội địa (trừ dầu) đạt 2429,41 tỷ đồng, đạt 31,76% dự toán năm, giảm 24,34%. Trong tổng thu ngân sách gồm: Thu thuế, phí 2.095,07 tỷ đồng, đạt 31,28% dự toán năm, giảm 24,54%; thu tiền nhà, đất 334,34 tỷ đồng, đạt 35,08% dự toán năm, giảm 23,10% (trong đó, thu tiền sử dụng đất 197,45 tỷ đồng, đạt 28,21% dự toán năm, giảm 38,34%); thu dầu thô 463,02 tỷ đồng, đạt 35,62% dự toán năm, giảm 25,33% và thu thuế xuất nhập khẩu 398,16 tỷ đồng, đạt 22,12% dự toán năm, giảm 58,15% so cùng kỳ năm trước.
Dự ước các khoản thu 4 tháng đầu năm 2020 tăng (giảm) so cùng kỳ năm trước như sau: Thu từ doanh nghiệp nhà nước 329,80 tỷ đồng (giảm 40,20%), thu doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 310,70 tỷ đồng (giảm 19,30%), thu ngoài quốc doanh 325,61 tỷ đồng (giảm 38,95%), thuế thu nhập cá nhân 204,89 tỷ đồng (giảm 13,58%), thuế bảo vệ môi trường 151,73 tỷ đồng (giảm 23,06%); lệ phí trước bạ 79,74 tỷ đồng (giảm 34,17%); thu từ các loại phí, lệ phí 58,85 tỷ đồng (tăng 9,56%); thu khác ngân sách 66,22 tỷ đồng (giảm 58,77%); thu xổ số kiến thiết 553,97 tỷ đồng (tăng 13,25%); thu tiền cấp quyền khai thác khoáng sản 9,94 tỷ đồng (giảm 76,13%); thu tiền thuế sử dụng đất phi nông nghiệp 0,87 tỷ đồng (giảm 77,60%), thu tiền thuê mặt đất, mặt nước 136,01 tỷ đồng (tăng 25,74%); thu tiền sử dụng đất 197,45 tỷ đồng (giảm 38,34%); thu từ dầu thô 463,02 tỷ đồng (giảm 25,33%) và thu thuế xuất nhập khẩu đạt 398,16 tỷ đồng (giảm 58,15%).
2. Chi ngân sách:
Ước chi ngân sách địa phương trong tháng 4 ước thực hiện 550 tỷ đồng; lũy kế 4 tháng 4.554,31 tỷ đồng; trong đó chi đầu tư phát triển 1.506,86 tỷ đồng, chi thường xuyên 1.828,48 tỷ đồng. Trong chi ngân sách, đã bám sát theo Quyết định giao dự toán của Chủ tịch UBND tỉnh; đồng thời, tăng cường công tác theo dõi, đánh giá, kiểm tra, thanh tra, giám sát việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý ngân sách nhà nước.
3. Hoạt động tín dụng:
Trong tháng, đã triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách và văn bản chỉ đạo của Trung ương, địa phương liên quan đến hoạt động ngân hàng như: Tiếp tục triển khai các giải pháp hỗ trợ khắc phục thiệt hại trong sản xuất kinh doanh do ảnh hưởng của dịch Covid-19; quy định về việc điều chỉnh giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng đồng Việt Nam đối với lĩnh vực ưu tiên và lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam... Bên cạnh đó, đã chỉ đạo các tổ chức tín dụng trên địa bàn triển khai các giải pháp nhằm phòng, chống dịch bệnh Covid-19 (khử trùng, sát khuẩn, vệ sinh các khu vực giao dịch tiền mặt, kho quỹ, ATM, vệ sinh khử trùng tiền mặt…); tăng cường khuyến khích khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, giao dịch online, hạn chế giao dịch trực tiếp; chủ động xây dựng phương án, đảm bảo các hoạt động liên tục ngay cả khi dịch bệnh phức tạp.
- Tình hình thực hiện lãi suất: Hiện nay, lãi suất huy động đối với tiền gửi có kỳ hạn 01 tháng đến dưới 6 tháng là 4,3-4,75%/năm; kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng là 5,3-7,3%/năm; kỳ hạn từ trên 12 tháng trở lên là 6,8-7,4%/năm; lãi suất cho vay các khoản vay mới ở các lĩnh vực ưu tiên ngắn hạn 5,5%/năm (riêng Quỹ tín dụng nhân dân là 6,5%/năm), các lĩnh vực khác từ 7,5-9,5%/năm; lãi suất cho vay trung và dài hạn phổ biến từ 10-12%/năm.
- Hoạt động huy động vốn: Được tiếp tục đẩy mạnh để tạo nguồn cho vay phục vụ phát triển kinh tế xã hội địa phương. Tính đến 31/3/2020, nguồn vốn huy động đạt 38.262 tỷ đồng, giảm 1,9% so với cuối năm 2019, giảm 1,04% so với tháng trước. Ước đến 30/4/2020, vốn huy động đạt 39.200 tỷ đồng, tăng 0,5% so với cuối năm 2019.
- Hoạt động tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục mở rộng cho vay đi đôi với an toàn và hiệu quả, gắn với thực hiện các chính sách của trung ương và địa phương. Tính đến 31/3/2020, tổng dư nợ cho vay trên địa bàn đạt 60.190 tỷ đồng, tăng 2,04% so với cuối năm 2019, tăng 1,35% so với tháng trước. Trong đó, dư nợ cho vay bằng VND đạt 59.086 tỷ đồng, chiếm 98,2% tổng dư nợ; dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 32.431 tỷ đồng, chiếm 53,9% tổng dư nợ. Ước đến 30/4/2020, dư nợ đạt 60.754 tỷ đồng, tăng 3% so với cuối năm 2019.
- Vốn tín dụng được tập trung vào các lĩnh vực ưu tiên gắn với thực hiện các chính sách của Trung ương và Địa phương, trong đó dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn đạt 33.465 tỷ đồng, chiếm 55,6% tổng dư nợ; dư nợ cho vay xuất khẩu đạt 601 tỷ đồng, chiếm 1% tổng dư nợ; dư nợ cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa đạt 13.645 tỷ đồng, chiếm 22,7% tổng dư nợ. Dư nợ cho vay các đối tượng chính sách xã hội đạt 2.779 tỷ đồng.
- Chính sách tín dụng đối với thủy sản theo Nghị định số 67/2014/NĐ-CP: Dư nợ đạt 966,7 tỷ đồng (cho vay đóng mới tàu dịch vụ hậu cần khai thác hải sản xa bờ là 297,7 tỷ đồng, cho vay đóng mới tàu khai thác hải sản xa bờ là 656,7 tỷ đồng, cho vay nâng cấp tàu 12,3 tỷ đồng), trong đó nợ xấu 24,4 tỷ đồng/6 tàu; nợ cơ cấu lại thời hạn 83,7 tỷ đồng/84 tàu.
- Cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo Quyết định số 813/QĐ-NHNN và Nghị quyết số 30/NQ-CP: Dư nợ cho vay đạt 321 tỷ đồng phục vụ nuôi tôm giống, tôm thịt, nuôi tôm giống công nghệ cao, chăn nuôi bò sữa công nghệ cao; dư nợ cho vay chăn nuôi lợn, sản xuất thuốc thú y, thức ăn gia súc đạt 444 tỷ đồng.
- Cho vay hỗ trợ nhà ở xã hội theo Nghị định số 100/2015/NĐ-CP: Hiện đang được triển khai tại Ngân hàng chính sách xã hội tỉnh với dư nợ đạt 27,6 tỷ đồng/70 hộ.
- Chất lượng tín dụng: Các Tổ chức tín dụng tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp phòng chống dịch, hỗ trợ khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, rà soát, cắt giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất cho vay đối với dư nợ hiện tại và các khoản cho vay mới; thông tin tuyên truyền trên Báo, đài địa phương để người dân, doanh nghiệp nắm bắt, thụ hưởng các chính sách. Đến 15/4/2020, đã giảm lãi vay cho 20 khách hàng với số tiền lãi được giảm là 130 triệu đồng/dư nợ 23 tỷ đồng, cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ là 756,8 tỷ đồng/664 khách hàng, cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch là 648,7 tỷ đồng/529 khách hàng (trong đó Chi nhánh Ngân hàng Á Châu xác định khách hàng vay mới từ ngày 23/01/2020 đến nay đều bị ảnh hưởng bởi dịch, do đó doanh số cho vay mới đối với khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 đạt 604,78 tỷ đồng là số liệu cho vay mới đối với toàn bộ khách hàng từ ngày 23/01/2020 đến nay).
- Hoạt động thanh toán, cung ứng tiền mặt: Tiếp tục tăng cường đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt, chuyển lương qua tài khoản, thanh toán qua POS. Mạng lưới ATM, POS tiếp tục được mở rộng, hoạt động thông suốt và an toàn. Đến 31/3/2020, trên địa bàn có 184 máy ATM, không thay đổi so với tháng trước và 1.631 máy POS (giảm 05 máy so với tháng trước), hầu hết máy POS được kết nối liên thông giữa các ngân hàng với nhau, góp phần thúc đẩy phát triển thanh toán không dùng tiền mặt.
- Tình hình thị trường ngoại tệ và vàng trên địa bàn: Các Tổ chức tín dụng trên địa bàn đã bám sát và thực hiện nghiêm túc các văn bản chỉ đạo của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất huy động ngoại tệ, quy định cho vay bằng ngoại tệ, các quy định về mua bán ngoại tệ. Diễn biến thị trường vàng, ngoại hối trên địa bàn tiếp tục ổn định, các nhu cầu mua ngoại tệ hợp pháp đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, các giao dịch mua bán ngoại tệ được thực hiện thông suốt. Doanh số mua bán ngoại tệ trong tháng 3/2020 đạt 197,6 triệu USD, doanh số chi trả kiều hối đạt 24,4 triệu USD.
V. Lĩnh vực Văn hoá - Xã hội
1. Hoạt động văn hoá:
Trong tháng tập trung tuyên truyền công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19; kỷ niệm 45 năm Giải phóng quê hương Bình Thuận (19/4/1975 - 19/4/2020) và chuẩn bị tốt các công tác kỷ niệm 45 năm ngày thống nhất đất nước Giải phóng hoàn toàn miền Nam (30/4/1975 - 30/4/2020), ngày Quốc tế Lao động 1/5; tuyên truyền lời kêu gọi của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19, từ ngày 15/03 - 20/4/2020, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp đã tạm dừng tổ chức.
Hoạt động Thư viện: Cấp mới 7 thẻ thiếu nhi; sưu tầm 130 tin, bài cho tập Thông tin tư liệu Bình Thuận; 19 tin, bài Chuyên mục Thông tin kinh tế. Luân chuyển 500 bản sách lưu động cho Thư viện huyện Hàm Thuận Bắc. Từ ngày 10/3 - 20/4/2020, tạm đóng cửa các phòng phục vụ bạn đọc, phòng cấp thẻ để phòng, chống dịch Covid-19.
Hoạt động bảo tồn, bảo tàng trong tháng đã đón 571 lượt khách, trong đó 22 lượt khách nước ngoài. Từ 15/3 đến nay (20/4/2020), các đơn vị hoạt động bảo tồn, bảo tàng đã tạm dừng các hoạt động tham quan, khảo sát, sưu tầm hiện vật… để phòng ngừa dịch bệnh Covid-19. Lũy kế 4 tháng (tính đến 20/4/2020), đã đón 58.123 lượt khách, trong đó 13.836 lượt khách nước ngoài.
2. Thể dục thể thao:
Thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch bệnh Covid-19 theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ, theo đó các hoạt động thể dục, thể thao địa phương tạm hoãn tổ chức cho đến khi có thông báo mới.
3. Giáo dục và Đào tạo
Trong tháng tiếp tục triển khai các biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 theo Chỉ thị số 16/CT-TTg, ngày 31/3/2020 của Thủ tướng Chính phủ; Chỉ thị số 48-CT/TU, ngày 31/3/2020 của Tỉnh ủy; Công văn số 1205/UBND-KGVXNV, ngày 31/3/2020 của Ủy ban nhân dân tỉnh và Công văn số 793/BGDĐT- GDTrH, ngày 12/3/2020 về việc tăng cường dạy học qua internet, qua truyền hình trong thời gian nghỉ học phòng, chống dịch Covid-19, ngành giáo dục đã phối hợp với Đài Phát thanh - Truyền hình Bình Thuận áp dụng triển khai dạy học trực tuyến và dạy học qua truyền hình cho lớp 12, lớp 9 và chỉ đạo việc đánh giá học sinh sau các tiết dạy học trực tuyến và dạy học qua truyền hình. Đang đề xuất Bộ Giáo dục và Đào tạo việc tinh giản nội dung dạy học do nghỉ học phòng, chống dịch.
Đã có văn bản chuẩn bị các điều kiện cần thiết để trẻ mầm non, học sinh, học viên đi học lại vào đầu tháng 5/2020. Bên cạnh đó, tiếp tục phối hợp với ngành y tế tổ chức phun thuốc khử trùng cho 100% các cơ sở giáo dục, cơ sở nghề nghiệp, cơ sở đào tạo trên địa bàn tỉnh để phòng, chống dịch bệnh viêm phổi Covid-19 nhằm đảm bảo an toàn khi học sinh các cấp trở lại lớp học.
4. Y tế
Đúng 0 giờ tối 03/4/2020, Ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết đã chính thức gỡ bỏ lệnh cách ly tại 02 tuyến đường thuộc khu phố 2, phường Đức Thắng, thành phố Phan Thiết. Công tác phòng, chống dịch bệnh của tỉnh được các đơn vị tích cực triển khai, thành lập 20 số điện thoại đường dây nóng phục vụ công tác phòng, chống dịch và phun thuốc khử khuẩn diện rộng trên địa bàn để phòng chống dịch bệnh viêm phổi Covid-19.
Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh và Trung tâm Y tế tuyến huyện đã triển khai xử lý, khử khuẩn môi trường tại các trường học trên địa bàn tỉnh, đến nay đã hoàn thành việc xử lý, kết quả khử khuẩn môi trường tại các trường học trên địa bàn tỉnh: 967/967 trường (trong đó có 493 trường mầm non, mẫu giáo; 316 trường tiểu học; 125 trường Trung học cơ sở; 33 trường Trung học phổ thông) đạt 100%.
Đến 15 giờ 00 phút, ngày 20/4/2020, theo số liệu công bố của Bộ Y tế, tỉnh Bình Thuận đã liên tiếp 38 ngày không ghi nhận thêm trường hợp nào nhiễm Covid-19, cả 9/9 ca nhiễm đều đã được chữa khỏi bệnh và ổ dịch liên quan đến bệnh nhân số 34 đã được khống chế hoàn toàn. 237 đối tượng Vòng 1 (F1) của 09 ca dương tính đã được cách ly tập trung và xử lý theo quy định, đều có kết quả xét nghiệm âm tính và theo dõi tại địa phương. Ủy ban nhân dân tỉnh đã có tờ trình số 1477/TTr-UBND, ngày 21/4/2020 về việc đưa Bình Thuận ra khỏi nhóm các tỉnh có nguy cơ cao vào nhóm có nguy cơ thấp kể từ sau ngày 22/4/2020 trong phòng, chống dịch Covid-19.
Trong tháng 4, số cas mắc sốt rét 8 cas, không có cas tử vong và mắc sốt rét ác tính. Số cas mắc sốt xuất huyết 91 cas, 2 cas mắc tay chân miệng, cả 2 đều không có tử vong. Số bệnh nhân hiện mắc bệnh phong 2 bệnh nhân, không có bệnh nhân mới phát hiện và số bệnh nhận đang quản lý 419 bệnh nhân.
Công tác phòng chống Lao đã khám 675 lượt người, số bệnh nhân thu dung điều trị 155. Số bệnh nhân lao phổi AFB (+) mới 84.
Số nhiễm HIV mới phát hiện 5 cas, (lũy kế 1.494 cas); số chuyển AIDS mới 2 cas (lũy kế 1.039 cas); tử vong mới 01 cas (lũy kế 527 cas).
Số trẻ <1 tuổi được tiêm chủng đầy đủ là 735/22.855 trẻ (đạt tỷ lệ 3,2%). Số phụ nữ có thai được tiêm UV2+: 810/22.855 (đạt 3,5%).
Công tác khám, chữa bệnh tiếp tục cơ bản đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Các bệnh viện, các đơn vị điều trị chủ động thực hiện tốt công tác thường trực, cấp cứu, điều trị bệnh nhân; thực hiện đầy đủ các quy định chuyên môn của Bộ Y tế; tăng cường công tác kiểm soát nhiễm khuẩn. Trong tháng đã khám tổng số 57.672 lượt khám, chữa bệnh và số bệnh nhân nội trú 7.888 người, 539 cas bệnh nhân chuyển viện và 29 ca tử vong.
Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm: Trong tháng không xảy ra vụ ngộ độc thực phẩm. Lũy kế 4 tháng xảy ra 01 vụ ngộ độc thực phẩm với tổng số 16 người mắc, nguyên nhân ngộ độc do độc tố tự nhiên từ cá nóc mú.
5. Lao động - Xã hội:
Trong tháng 4 (đến ngày 15/4/2020), số lao động nộp hồ sơ đề nghị hưởng trợ cấp thất nghiệp 1.242 người, lũy kế 4 tháng 2.557 hồ sơ; ban hành Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp cho 844 lao động, lũy kế 4 tháng 2.089 lao động có Quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh cho học sinh, sinh viên, học viên nghỉ học để phòng, chống dịch Covid-19 và tăng cường công tác phòng, chống dịch bệnh Covid-19; Lũy kế 4 tháng (tính đến 15/4/2020) tuyển mới và đào tạo nghề cho 3.137 người, đạt 28,52% so với kế hoạch năm và bằng 127,37% so với quý cùng kỳ năm trước.
Công tác chính sách người có công: Thực hiện quyết định điều dưỡng tại nhà năm 2020 cho 2.364 đối tượng thuộc 09 huyện, thị xã, thành phố. Trợ cấp hàng tháng, trợ cấp một lần cho 05 đối tượng theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công. Trợ cấp mai táng phí cho 39 trường hợp. Thực hiện chế độ cho các đối tượng khác: Quyết định trợ cấp ƯĐGD cho 02 trường hợp; Trợ cấp thờ cúng liệt sĩ cho 22 trường hợp cấp mới và đổi người thờ cúng. Ngoài ra, tiếp nhận 14 hồ sơ và tiếp nhận 05 hài cốt liệt sĩ do gia đình quản lý vào an táng trong Nghĩa trang liệt sĩ tỉnh.
Toàn tỉnh có 2.830 người nghiện ma túy; có 105/124 xã, phường, thị trấn có người sử dụng chất ma túy, chiếm 84,67%. Số người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế Methadone là 1.552 người.
Đang rà soát, lập danh sách hỗ trợ người lao động theo Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 09/4/2020 của Chính phủ về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do dịch Covid-19.
Theo báo cáo của hệ thống giám sát tình hình dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới của Covid-19, tính đến 20/4/2020 trên địa bàn tỉnh có 900 người Trung Quốc và người nước khác được quản lý, trong đó số đang lao động, làm việc 490 người Trung Quốc, 11 người Đài Loan, 12 người Hàn Quốc Hàn, 2 người Đức, 2 người Pháp, 5 người Nhật Bản; còn lại là Nga, Ukraine, Ấn Độ, Philippine... không có Iran, Ý, Tây Ban Nha.
6. Hoạt động bảo hiểm
Tính đến ngày 31/3/2020, toàn tỉnh có 94.437 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 0,7% so cùng kỳ năm trước; có 85.073 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, tăng 3,9% so cùng kỳ năm trước; Số người tham gia BHXH tự nguyện 3.522 người, tăng 180,8% so cùng kỳ năm trước; Số người tham gia BHYT 982.025 người (bao gồm thẻ BHYT của thân nhân do Bộ Quốc phòng cung cấp là 10.785 người), tăng 3,6% so cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bao phủ BHYT chung toàn tỉnh đạt 84,9% dân số.
Toàn tỉnh thu được 591,583 tỷ đồng (tính đến ngày 31/3/2020), đạt 23,1% kế hoạch, tăng 7,3% so cùng kỳ năm trước. Tổng số tiền nợ BHXH, BHYT, BHTN là 114,080 tỷ đồng, đạt 4,45% kế hoạch và tăng 4,39% so cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung, công tác giải quyết, chi trả các chế độ BHXH, BHYT, BHTN cho đối tượng thực hiện đầy đủ, kịp thời, đúng quy định, tạo thuận lợi cho các tổ chức, cá nhân tham gia và thụ hưởng; cấp sổ BHXH, thẻ BHYT chính xác, trả sổ BHXH cho người lao động cơ bản đúng kế hoạch; Đã áp dụng thực hiện chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH, BHTN tháng 4 và tháng 5/2020 trong thời gian phòng chống dịch Covid-19 qua hệ thống Bưu điện.
7. Tai nạn giao thông:
Trong tháng 4 (từ 16/3 - 15/4/2020), tai nạn giao thông trên địa bàn xảy ra như sau:
- Số vụ tai nạn giao thông 22 vụ, so tháng trước giảm 3 vụ và so cùng kỳ năm trước giảm 11 vụ. Luỹ kế 4 tháng 91 vụ (trong đó đường sắt 01 vụ), so cùng kỳ năm trước giảm 28 vụ.
- Số người bị thương 11 người, giảm 5 người so tháng trước và so cùng kỳ năm trước giảm 9 người. Luỹ kế 4 tháng 56 người, giảm 17 người so cùng kỳ năm trước.
- Số người chết 15 người, tăng 01 người so tháng trước và giảm 9 người so cùng kỳ năm trước. Luỹ kế 4 tháng 55 người (trong đó đường sắt 01), so cùng kỳ giảm 25 người.
Trong tháng không xảy ra vụ tai nạn giao thông nào đặt biệt nghiêm trọng. Các vụ tai nạn giao thông chủ yếu xảy ra và tập trung trên tuyến quốc lộ 1A, nguyên nhân của các vụ tai nạn trên là do người tham gia giao thông phóng nhanh vượt ẩu, đi không đúng phần đường, làn đường, chuyển hướng sai quy định, không nhường đường, lái xe đã uống rượu bia... ngoài ra còn có các nguyên nhân khác và do người đi bộ gây ra. Qua 4 tháng thực hiện Nghị định số 100/2019/NĐ-CP, ngày 30/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về “Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt” các vụ tai nạn liên quan đến rượu, bia khi tham gia giao thông đã giảm đáng kể. Bên cạnh đó, người dân thực hiện phương pháp phòng chống dịch bệnh viêm phổi Covid-19 hạn chế ra đường và ở nhà nên cũng góp phần giảm thiểu tai nạn giao thông.
8. Thiên tai, cháy nổ và vi phạm môi trường (từ ngày 15/03 - 15/4/2020):
- Thiên tai: Từ đầu năm đến ngày 15/4/2020 trên địa bàn tỉnh xảy ra 01 vụ thiên tai do hạn nắng nóng (4 tháng qua không có mưa). Số hộ dân thiếu nước sinh hoạt trên địa bàn tỉnh 25.126 hộ/92.824 khẩu.
- Cháy nổ: Trong tháng xảy ra 9 vụ cháy (tăng 1 vụ so cùng kỳ), không thiệt hại về người, tổng thiệt hại 3,2 tỷ đồng; 7,1 ha diện tích cây keo lá tràm (01 vụ chưa thống kê được thiệt hại); 01 vụ nổ khí gas nhà dân làm 4 người bị thương. Lũy kế 4 tháng 37 vụ cháy (tăng 18 vụ so cùng kỳ), thiệt hại hơn 5 tỷ đồng.
- Vi phạm môi trường : Trong tháng đã phát hiện 4 vụ (tăng 4 vụ so với cùng kỳ); đã xử phạt 340 triệu đồng. Lũy kế 4 tháng 11 vụ (tăng 2 vụ so cùng kỳ), đã xử phạt 844 triệu đồng./.
BIểu số liệu
Nguồn: Cục Thống kê Bình Thuận |